Khi hiện ra với Thánh Faustina Kowalska, Chúa Giêsu đã nói về lòng thương xót vô tận của Người. Thế nhưng, lòng thương xót vĩ đại của Thiên Chúa không phải là một sự mặc khải của thế kỷ 20; không, ngay từ đầu, Giáo hội đã biết rằng tình yêu thương của Thiên Chúa vô cùng cao cả đến nỗi kêu gọi cả những tội nhân xấu xa nhất để nên thánh. Tuy nhiên, thật dễ để cảm thấy xấu hổ về những tội lỗi trong quá khứ của chúng ta (hoặc những tội lỗi mà chúng ta dường như không thể thoát khỏi ngay lúc này) đến nỗi chúng ta bắt đầu tin rằng Thiên Chúa không thể làm cho chúng ta trở nên thánh thiện. Khi chúng ta thực hiện các việc tôn vinh Lòng Chúa Thương Xót, chúng ta hãy noi gương những vị thánh mà tội lỗi của họ nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta có thể được biến đổi để trở nên thánh.
1. Thánh Maria Ai Cập (344-421). Maria Ai Cập thường bị gọi là gái điếm, dù cô không bán thân kiếm tiền. Ngược lại, cô là một người cuồng dâm, tìm kiếm đàn ông chỉ để thoả mãn dục vọng thân xác mà không cần tiền; người ta nói rằng đôi khi cô ép buộc cả những người đàn ông xa lạ ăn nằm với cô dù họ không muốn. Nghe vậy, thật khó mà nghĩ một người phụ nữ lăng loàn như thế có thể được cứu độ, nhưng Thiên Chúa có thể vẽ đường thẳng trên những nét cong. Một lần kia, Maria nảy ra ý tưởng đi đến vùng Đất Thánh để cám dỗ những người đàn ông hành hương ở đây, vốn rất đông. Ở đó, được ơn hoán cải kỳ diệu, Maria đau đớn vì tội lỗi của mình, và ngay lập tức cô trốn vào sa mạc. Cô ở đó gần như một mình suốt 17 năm, không ngừng chiến đấu với sự dằn vặt của đam mê, khóc lóc hy sinh đền tội. Sau cùng, cô dứt chừa được những thói xấu và sống thanh tịnh tuyệt đối, trở thành một vị thánh ẩn sĩ vĩ đại, được sùng kính rộng rãi trong các Giáo Hội Kitô Đông Phương.
Xem thêm: Hạnh các Thánh theo lịch Phụng Vụ
2. Thánh Camilô Lellis (1550-1614). Camilô là người Ý, con của một người đàn ông nóng tính và vô tâm. Camilô phát triển nhanh, tuổi còn trẻ nhưng dáng vóc đã cao lớn, mạnh khoẻ vượt trội. Cậu tham gia đội lính đánh thuê và đi chinh chiến khắp châu Âu cho những người bỏ tiền ra thuê cậu. Bị nhiễm tính người cha, cậu cũng nóng tính, bạo lực, nghiện rượu và đam mê bài bạc. Ai cầm gươm sẽ chết vì gươm, Camilô cuối cùng bị thương nặng ở chân nên không thể chinh chiến tiếp. Nhưng đam mê cờ bạc đã khiến cậu không còn một xu dính túi, cũng không có bạn bè nào để nhờ vả. Trong tình cảnh chìm xuống đáy xã hội, Camilô tìm đến Chúa Giêsu và ăn năn hối cải. Nhưng một thời gian sau, cậu lại quay lại các đam mê xấu cũ, cho đến khi túng cùng thì hối cải, xong lại sa đoạ tiếp. Cho đến một ngày, nhờ Thánh Philipphê Nêri, cậu hối cải dứt khoát và trọn vẹn. Khi hoàn cảnh ổn hơn, cậu không quay lại với lối sống hư đốn nữa, bỏ hẳn rượu và cờ bạc. Sau cùng, Camilô lập dòng Tá Viên Mục Vụ Bệnh Nhân, chuyên phục vụ các bệnh nhân nghèo, đã góp phần thay đổi bộ mặt y tế của cả thế giới.
Xem thêm: Thánh Camillo De Lellis Vị thánh của chữ thập đỏ
3. Thánh Augustine Yi Kwang-hon (1787-1839). Yi Kwang-hon sinh ra trong một gia đình quý tộc ngoại giáo Triều Tiên. Từ rất trẻ, Yi đã rơi vào lối sống thoái hoá, nghiện rượu. Yi lấy vợ, nhưng việc này không giúp gì cho đời sống hư thân của anh. Một ngày kia, Yi và vợ là Kwon Hui được nghe biết về Tin Mừng Chúa Giêsu. Được đánh động sâu sắc, hai người trở lại Kitô Giáo và cung cấp nhà mình làm nơi trú ẩn cho các Giám Mục và linh mục trong cuộc bắt đạo. Làm người Công Giáo, Yi Kwang-hon vẫn phải đấu tranh với thói nghiện rượu trong một thời gian nữa mới dứt được hoàn toàn. Sau đó, Yi trở thành một giáo lý viên. Cuối cùng, Augustine Yi Kwang-hon cùng với vợ Barbara Kwon Hui, con gái Agatha Yi và em trai là John Baptist Yi Kwang-ryol chịu tử đạo. Tất cả đều được phong Thánh, các Thánh tử đạo Triều Tiên (Hàn Quốc).
4. Máccô Kỷ Thiên Tưởng (Mark Ji Tian Xiang) (1834-1900). Sinh ra trong một gia đình Kitô Giáo Trung Hoa, Kỷ Thiên Tưởng là một lãnh đạo của cộng đoàn Công Giáo địa phương. Với lòng bác ái rộng lượng, cậu Kỷ trở thành bác sĩ và phục vụ miễn phí cho người nghèo. Không may, cậu mắc bệnh bao tử và phải tìm đến thuốc phiện để chữa. Đương nhiên, Kỷ trở thành một con nghiện nặng nề. Theo luật Giáo Hội thời ấy, hút thuốc phiện là một tội trọng không được rước lễ, nên chàng phải xưng tội này thường xuyên. Vị linh mục địa phương thấy cùng một người cứ xưng đi xưng lại một tội thì cho rằng anh ta không có ý ăn năn dốc lòng chừa (cha ấy không biết được nghiện thuốc phiện khó cai đến mức nào), nên quyết định từ chối giải tội. Suốt 30 năm, Kỷ Thiên Tưởng nghiện thuốc phiện, không được giải tội và không thể rước lễ, dầu vẫn sốt sắng giữ vững đức tin. Không phải là chàng không có ý từ bỏ nghiện ngập, nhưng nghiện thuốc phiện không phải như nghiện cà phê mà muốn ngừng là ngừng. Năm 1900, Kỷ Thiên Tưởng chịu tử đạo dưới thời phong trào Nghĩa Hoà Đoàn, cùng với toàn bộ gia đình, trong khi vẫn là một người nghiện, không xưng tội suốt 30 năm. Thánh Máccô Kỷ Thiên Tưởng được phong Thánh tử đạo Trung Hoa, là 1 trong 120 vị anh hùng tử đạo của vùng đất cổ kính này.
5. Đấng Đáng Kính Matt Talbot (1856-1925). Matt Talbot sinh tại Dublin, Ireland, trong một gia đình có truyền thống uống rượu. Từ năm 13 tuổi, cậu đã bắt đầu đời sống hũ chìm, đến năm 28 tuổi, cậu vẫn chỉ biết đến rượu và rượu. Năm 28 tuổi, một tác động tâm linh đã khiến cậu khấn hứa sẽ cai rượu. Phải rất vất vả để từ bỏ thói quen, Matt đã không động đến rượu một lần nào nữa. Cậu tập thói quen không giữ tiền trong người để khỏi đến quầy rượu và say đắm trong đó. Không lập gia đình, Matt sống hơn 40 năm trong cô tịch, khó nghèo, hãm mình, kinh nguyện và lao động. Ngài thường nói “Đừng nghiêm khắc quá với một người không bỏ rượu được. Thật sự bắt một người nghiện rượu bỏ rượu cũng khó như đưa người chết về cõi sống vậy. Nhưng cả hai điều đó đều có thể và thật dễ dàng với Chúa chúng ta. Ta chỉ phải luôn trông cậy Người mà thôi.”
6. Thánh Longinus (thế kỷ I) mang lại hy vọng cho cả những tội nhân xấu xa nhất. Nếu người đàn ông đã giết Thiên Chúa bằng chính hai tay của mình có thể là một vị thánh, thì bất cứ ai cũng có thể trở thành thánh nhân.
Longinus là tên gọi của vị đại thần La Mã đã dùng giáo đâm vào cơ thể của Chúa Giêsu để chắc chắn rằng Chúa đã thực sự chết. Khi nhìn thấy cách Chúa Giêsu chết, Longinus kêu lên: "Quả thật người này là Con Thiên Chúa!". Truyền thống sau này khẳng định rằng Longinus đã được hoán cải trong thời điểm đó. Sau khi được rửa tội, ngài trở thành một nhà truyền giáo vĩ đại, rao giảng Tin Mừng của Đấng mà chính ngài đã cộng tác giết chết.
7. Thánh nữ Olga xứ Kiev (mất năm 969) là một kẻ sát nhân hàng loạt. Để bảo vệ vương niệm của mình, vị Nữ hoàng nước Kievan Rus’ này đã giết chết rất nhiều kẻ thù của mình, có lần ngài đã bao vây một thành phố và thiêu rụi nó ra tro bụi, ngay cả khi người dân trong thành phố đầu hàng.
Olga đã được rửa tội trong một chuyến viếng thăm chính trị đến Constantinople, có lẽ là vì một nỗ lực để giành quyền lực giữa các nhà cai trị Kitô Giáo khác trong khu vực. Dù ý định của ngài là gì, phép rửa đã hoàn toàn biến đổi ngài. Ngài đã dành phần đời còn lại của mình để bù đắp những tổn thương mà ngài đã gây ra, đặc biệt cải hóa tính khí tàn nhẫn của đứa con trai của ngài. Ngài đã mời những nhà truyền giáo đến đất nước mình, nhưng họ hầu như không thành công. Tuy nhiên, sau cái chết của Olga, sự chuyển cầu của ngài đã mang lại sự chữa lành kỳ diệu cho cháu trai của ngài là Thánh Vladimir Đại đế, người đã đưa người dân Nga đến với Đức Kitô. Với sứ mạng của mình, ngài được biết đến như là vị Tông đồ trong Giáo hội Đông Phương.
Xem thêm: Truyện một tâm hồn của Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu
8. Thánh Bruno Sserunkuuma (~ 1856-1886) là một kẻ kiêu ngạo, bạo lực, đa thê, nghiện rượu và dâm ô. Mặc dù khao khát sự thánh thiện và được tuyển chọn để chịu phép Rửa tội khi trưởng thành, Sserunkuuma nhận thấy rằng Bí tích không loại bỏ thiên hướng phạm tội của ngài một cách thần kỳ. Ngài vẫn sử dụng hình thức tống tiền khi công việc của ngài là một vệ sĩ hoàng gia yêu cầu ngài phải thu thuế. Và khi nhà vua trao cho ngài hai phụ nữ trẻ như một phần thưởng, những nỗ lực trong đức khiết tịnh của Sserunkuuma đã tan thành mây khói. Ngài lấy cả hai người làm vợ (mặc dù cả hai đều không phải là một cuộc hôn nhân hợp pháp) và ngay sau đó một trong hai người phụ nữ có thai.
Thật may mắn, thánh Charles Lwanga và thánh Andrew Kaggwa - những người bạn của Sserunkuuma, đã lo lắng trước lối sống của ngài và đã đối mặt với ngài, đưa ra lời chấn chỉnh xác tín đến nỗi rằng Sserunkuuma đã rời bỏ cả hai người phụ nữ. Ngài để họ trong nhà của mình và làm một cái gì đó giống như một đan phòng cho mình trong cung điện, nơi ngài đã sống sau khi ăn năn sám hối. Mặc dù ngài không được biết đến như là một Kitô hữu, nhưng khi cuộc đàn áp các Kitô hữu bắt đầu, ngài đã thú nhận rằng mình là một Ki-tô hữu và đã bị thiêu chết.
9. Chân phước Bartolo Longo (1841-1926) là thượng tế của Satan trước khi được ơn hoán cải. Mặc dù đã ý thức cầu nguyện lần chuỗi Mân Côi, Bartolo vẫn mong muốn được sống trọn vẹn trải nghiệm thời đại học, điều mà vào thời điểm đó có nghĩa là chống lại chủ nghĩa giáo sĩ, ủng hộ chủ nghĩa vô thần và sau cùng là thực hành các thế lực huyền bí. Chẳng bao lâu sau, ngài được “phong chức” trở thành linh mục của Satan.
Nhờ sự chuyển cầu của người cha đã khuất, Bartolo cuối cùng đã trở về bên Chúa và từ bỏ chủ nghĩa Satan, mặc dù phải mất một thời gian để ngài chấp nhận rằng Chúa đã thực sự tha thứ cho mình. Trong hơn 50 năm sau đó, Bartolo truyền bá Kinh Mân Côi, thành lập trường học cho người nghèo và thành lập trại trẻ mồ côi cho trẻ em phạm tội.
Thật là điều đáng buồn khi chúng ta luôn gặp khó khăn để kéo mình ra khỏi các đam mê và thói quen không thánh thiện mà ta đã sa đi phạm lại vô số lần, hay đã đấu tranh nhiều năm trời với các cám dỗ mà vẫn không toàn thắng được. Nhưng ta có đầy lý do để hy vọng trong đức tin, vì lịch sử đã chứng kiến nhiều vị thánh từng vướng trong các đam mê và sa lầy trong tội lỗi, nhưng sau cùng đã tiến đến đỉnh trọn lành. Các ngài là bằng chứng cho chúng ta về chân lý: mặc kệ tội lỗi và yếu đuối tồi tệ của chúng ta, số phận của chúng ta là hướng về tình yêu Thiên Chúa chứ không phải các thất bại của bản thân.
(Bài viết có tư liệu lấy từ nguồn https: Aleteia & https://hdgmvietnam.com)